Ngày 15 tháng 12 năm 2025, Nhóm NCM Quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước và dinh dưỡng cây trồng đã tổ chức buổi seminar khoa học với chủ đề: “Thực trạng canh tác một số loại cây trồng chủ lực của tỉnh Hưng Yên” do TS. Nguyễn Thành Trung - Bộ môn Khoa học đất và Dinh dưỡng cây trồng - trình bày. Tham dự buổi seminar có các thầy cô giảng viên thuộc nhóm NCM Quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước và dinh dưỡng cây trồng - khoa Tài nguyên và Môi trường.
    |
 |
| TS. Nguyễn Thành Trung trình bày báo cáo |
Theo Quy hoạch của tỉnh Hưng Yên (tỉnh Thái Bình cũ) thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nông nghiệp được xác định là trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Hưng Yên hướng tới trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp hàng đầu vùng ĐBSH, tập trung phát triển, hiện đại hóa sản xuất các mặt hàng nông, lâm, thủy sản chủ lực, hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất nông sản, xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Quyết định 2840/QĐ-UBND ngày 18/11/2021 của UBND tỉnh đã xác định 6 nhóm nông sản chủ lực là lúa, ngô, khoai tây, hành/tỏi, dưa/bí và cây ăn quả. Tuy nhiên, thực tế sản xuất nông nghiệp ở Hưng Yên đang phải đối mặt với nhiều thách thức: biến đổi khí hậu, dịch bệnh, giá cả vật tư nông nghiệp tăng cao, thị trường tiêu thụ bấp bênh và đặc biệt là tình trạng suy thoái đất canh tác do quá trình sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong thời gian dài. Ngoài ra, hiệu quả sản xuất giữa các hộ gia đình, các xã còn có sự khác biệt lớn. Do đó, việc nghiên cứu, khảo sát thực trạng sản xuất, phân tích chi phí và hiệu quả kinh tế, đồng thời đánh giá tác động của quá trình canh tác các loại cây trồng chủ lực của tỉnh đến tài nguyên đất là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
    |
 |
| Một số hình ảnh phỏng vấn nông hộ và cán bộ chuyên môn |
Năm 2025, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra, khảo sát 120 nông hộ đang sản xuất các loại cây trồng chủ lực của tỉnh: lúa, ngô, khoai tây, hành/tỏi, dưa/bí và nhãn (20 hộ/1 loại cây). Mẫu điều tra được thiết kế theo phương pháp chọn cụm xã theo cây trồng chủ lực nhằm bảo đảm tính đại diện cho các hệ thống canh tác đặc thù của tỉnh. Tại mỗi xã, nhóm nghiên cứu lập danh sách hộ canh tác cây trồng mục tiêu tối thiểu 3 năm liên tục, loại trừ các hộ tạm ngừng sản xuất/vắng mặt, sau đó chọn ngẫu nhiên 10 hộ. Cỡ mẫu n=120 cho phép ước lượng tỷ lệ với sai số biên khoảng ±9% ở mức tin cậy 95% (giả định p ≈ 0,5). Phiếu phỏng vấn nông hộ gồm các nội dung: diện tích, giống, lịch thời vụ, chi phí (giống, phân, thuốc, công), năng suất, giá bán, kênh tiêu thụ; đánh giá chủ quan về đất (màu sắc, tơi xốp, mùi, úng/khô), tần suất bón hữu cơ, luân canh. Ngoài ra, nhóm còn phỏng vấn đại diện HTX/doanh nghiệp thu mua về tiêu chuẩn chất lượng, bao tiêu, biến động giá và quan sát trực tiếp hiện trường về kết cấu đất, tồn dư rơm rạ, cỏ dại, hệ thống tưới–tiêu… Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích SWOT (Strengths – Weaknesses – Opportunities – Threats) để đánh giá toàn diện hiện trạng và triển vọng phát triển hệ thống canh tác bền vững tại tỉnh Hưng Yên. Đây là công cụ phân tích chiến lược nhằm tổng hợp và hệ thống hóa các thông tin thu được từ điều tra hộ nông dân, phỏng vấn sâu cán bộ địa phương, cũng như tài liệu thứ cấp từ báo cáo của các cơ quan quản lý nông nghiệp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ngoài lúa vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhiều địa phương đã chuyển đổi mạnh sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao như rau màu, khoai tây, nhãn, gia vị…phản ánh xu hướng chuyển dịch sản xuất theo hướng đa dạng hóa, nhằm thích ứng với thị trường và tăng thu nhập. Cây lúa và dưa bí có lợi nhuận thấp nhất, trong khi nhãn, khoai tây và hành/tỏi mang lại lợi nhuận cao. Khoai tây và hành/tỏi có tỷ suất lợi nhuận/chi phí sản xuất cao nhất. Ngô có hiệu quả trung bình, chịu ảnh hưởng mạnh từ thị trường nhập khẩu. Dưa/bí, nhãn năng suất cao nhưng giá cả bấp bênh do phụ thuộc chủ yếu vào thị trường. Điều này khẳng định xu hướng dịch chuyển cơ cấu cây trồng là hợp lý, song cần được điều chỉnh để đảm bảo cân bằng lợi ích kinh tế và bền vững sinh thái.
Nghiên cứu đã làm rõ các dạng suy thoái phổ biến nhất là giảm hữu cơ, đất bạc màu, chai cứng, chua hóa và thoát-giữ nước kém. Tỷ lệ hộ phản ánh thoái hóa đất chiếm từ 40–80% tùy cây trồng, trong đó cao nhất ở nhóm lúa, rau màu và khoai tây. Nguyên nhân chủ yếu đến từ thâm canh liên tục, lạm dụng phân bón vô cơ và thuốc BVTV, ít sử dụng phân hữu cơ và phụ phẩm nông nghiệp… Hậu quả là năng suất giảm, chi phí gia tăng, lợi nhuận bị bào mòn, và nông nghiệp đối mặt với vòng luẩn quẩn “thâm canh – thoái hóa đất – chi phí cao – lợi nhuận thấp”. Các biện pháp chính nhằm khắc phục thoái hóa đất mà nông dân đang áp dụng là bón phân hữu cơ, tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp, một số hộ có bón vôi và luân canh với cây bộ đậu, chỉ 1 số ít hộ sử dụng chế phẩm sinh học. Tuy nhiên, mức độ áp dụng còn hạn chế và mang tính cục bộ. Nguyên nhân là thiếu nguồn lực, chi phí cao và chưa thực sự hiểu về lợi ích của cây luân canh/xen canh. Điều này khẳng định cần có giải pháp đồng bộ để kết hợp nhiều biện pháp, thay vì kỳ vọng vào một giải pháp đơn lẻ.
Trên cơ sở phân tích thực trạng trên và điều kiện thực tế của địa phương, nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp phát triển hệ thống canh tác bền vững bao gồm: kỹ thuật canh tác (bón phân hữu cơ, IPM, luân canh/xen canh hợp lý, tưới hợp lý); kinh tế-tổ chức (phát triển HTX, xây dựng chuỗi giá trị, đầu tư bảo quản sau thu hoạch); chính sách-quản lý (tín dụng ưu đãi, trợ giá phân hữu cơ, quan trắc đất định kỳ); và xã hội-môi trường (tuyên truyền thay đổi nhận thức, phong trào hạn chế đốt rơm rạ, khuyến khích thanh niên tham gia nông nghiệp công nghệ cao…).
Sau phần trình bày của TS. Nguyễn Thành Trung, các thành viên nhóm NCM tham dự buổi seminar đã có nhiều thảo luận sôi nổi xoay quanh chủ đề trên. Kết quả thảo luận của buổi seminar làm cơ sở để định hướng cho những nghiên cứu sâu hơn trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Thành Trung - nhóm NCM Quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước và dinh dưỡng cây trồng