Tại phiên họp toàn thể Ủy ban Khoa học công nghệ Môi trường của Quốc hội lần thứ 14, các đại biểu đã có những ý kiến góp ý cho Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Phát biểu tại phiên họp, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Đoàn Đại biểu Quốc hội Hà Nội) cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường là rất cần thiết, nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp, đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng cường phân cấp, phân quyền, đồng thời cụ thể hóa các nghị quyết mới của Đảng và Bộ Chính trị về phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.
Góp ý Điều 15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trồng trọt năm 2018, GS.TS Nguyễn Thị Lan cho rằng, dự thảo đã thể hiện rõ định hướng hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giống cây trồng, phân bón, mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại, minh bạch và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, vẫn còn một số nội dung cần được làm rõ và bổ sung để bảo đảm tính khả thi, đồng thời nâng cao năng lực quản lý và chất lượng kiểm soát trong lĩnh vực trồng trọt.
    |
 |
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan chủ trì phiên họp toàn thể Ủy ban Khoa học công nghệ Môi trường của Quốc hội lần thứ 14. Ảnh: Quochoi.vn. |
Theo Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, về quản lý giống cây trồng và phân bón, dự thảo đã quy định cụ thể các hành vi vi phạm và điều kiện sản xuất, kinh doanh. Quy định này là cần thiết để siết chặt kỷ cương quản lý, nhưng tôi cho rằng cần bổ sung vai trò của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu nông nghiệp trong công tác kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng giống và phân bón. Ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Hà Lan, các trường đại học nông nghiệp được Nhà nước công nhận là phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia, có chức năng kiểm định độc lập, giám sát và phản biện kỹ thuật.
Cơ chế này giúp giảm tải cho cơ quan hành chính, tăng tính khách quan, đồng thời cập nhật nhanh các tiến bộ khoa học vào quản lý thực tiễn. Việc Việt Nam bổ sung quy định này sẽ tạo nền tảng pháp lý để huy động trí tuệ khoa học trong kiểm soát chất lượng đầu vào của ngành trồng trọt", GS.TS Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Liên quan đến khoản 2 Điều 15 về công nhận và gia hạn lưu hành giống cây trồng, dự thảo nâng thời hạn lên 20 năm đối với cây hàng năm và 25 năm đối với cây lâu năm, đồng thời cho phép gia hạn.
GS.TS Nguyễn Thị Lan đồng tình với hướng sửa này nhằm khuyến khích đầu tư vào chọn tạo giống, nhưng đề nghị bổ sung điều kiện gia hạn rõ ràng.
Cụ thể, việc gia hạn cần dựa trên kết quả đánh giá định kỳ về năng suất, tính ổn định di truyền, khả năng thích nghi và tác động môi trường, do các đơn vị nghiên cứu – đào tạo được Bộ chỉ định thực hiện.
Áp dụng cơ chế này ở Việt Nam sẽ giúp bảo đảm tính khoa học, minh bạch, tránh tình trạng giống bị thoái hóa vẫn lưu hành kéo dài, ảnh hưởng đến năng suất và uy tín nông sản.
Về Điều 40 quy định điều kiện khảo nghiệm phân bón, GS.TS Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung hai điểm: thứ nhất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần công khai danh sách các tổ chức được phép khảo nghiệm và tiến hành đánh giá lại năng lực định kỳ; thứ hai, cần cho phép các viện nghiên cứu, trường đại học có phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO/IEC 17025 được tham gia mạng lưới khảo nghiệm quốc gia.
    |
 |
GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam góp ý tại phiên họp. Ảnh: quochoi.vn |
Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực sẵn có tại các viện nghiên cứu, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Cần Thơ hay Đại học Nông Lâm TP.HCM – những cơ sở có năng lực khoa học cao và đội ngũ chuyên gia đạt chuẩn quốc tế – để làm lực lượng kỹ thuật nòng cốt hỗ trợ Bộ trong kiểm định, giám sát chất lượng phân bón và vật tư nông nghiệp.
Tại Điều 42 về điều kiện buôn bán phân bón, dự thảo đã yêu cầu người kinh doanh phải được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, hoặc có trình độ trung cấp trở lên trong ngành liên quan. Quy định này là tiến bộ, nhưng để đảm bảo thực thi nghiêm túc, cần thiết lập cơ chế cấp mã số hành nghề và đào tạo định kỳ (CPD) cho người kinh doanh phân bón.
Đối với Điều 64 về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, dự thảo đã thể hiện rõ định hướng số hóa và truy xuất nguồn gốc, rất phù hợp với xu thế quốc tế. Tuy nhiên, để nâng cao tính hiệu quả, GS.TS Nguyễn Thị Lan kiến nghị xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý, kết nối trực tiếp với hệ thống của Tổng cục Hải quan, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật và các thị trường nhập khẩu lớn. Đồng thời, cần cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học tham gia thẩm định kỹ thuật vùng trồng, đánh giá tiêu chuẩn GAP và phân tích dư lượng hóa chất.
"Tôi cho rằng Dự thảo cần bổ sung điều khoản về vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia. Các cơ sở này không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là đối tác kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu giống, kiểm định phân bón, đánh giá chất lượng và tư vấn chính sách. Đây cũng là cách để Việt Nam tận dụng nguồn lực tri thức trong nước, tăng năng lực phản biện và cập nhật khoa học công nghệ vào quá trình hoạch định và giám sát chính sách", GS.TS Nguyễn Thị Lan nói.
Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đề nghị bổ sung điều khoản về vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia. Các cơ sở này không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là đối tác kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu giống, kiểm định phân bón, đánh giá chất lượng và tư vấn chính sách.
Về vấn đề quản lý và sử dụng đất nông nghiệp, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, việc bảo vệ tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước – lớp đất canh tác quý giá, quyết định độ phì, năng suất và khả năng tự phục hồi của đồng ruộng Việt Nam.
Hiện nay, các quy định của chúng ta, như Luật Đất đai 2013, Nghị định 35/2015/NĐ-CP và Nghị định 62/2019/NĐ-CP, đã bước đầu đề cập đến việc bóc, lưu giữ và hoàn thổ tầng đất mặt khi chuyển mục đích sử dụng đất lúa. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định này vẫn còn thiếu tính cụ thể, chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất và cơ chế giám sát hiệu quả. Ở nhiều địa phương, khi triển khai dự án hạ tầng, tầng đất mặt – vốn hình thành qua hàng trăm năm canh tác – bị lấy đi, mất khả năng phục hồi, làm giảm năng suất đất nông nghiệp và ảnh hưởng đến an ninh lương thực lâu dài.
Nhìn ra thế giới, chúng ta có nhiều bài học quý giá. Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Liên minh châu Âu đều coi tầng đất mặt là tài nguyên chiến lược quốc gia. Họ quy định rõ độ dày tối thiểu của lớp đất canh tác, bắt buộc bóc – lưu giữ – hoàn thổ khi xây dựng công trình, quan trắc định kỳ các chỉ tiêu pH, độ hữu cơ, và số hóa bản đồ đất mặt toàn quốc. Đặc biệt, nhiều nước còn có Quỹ phục hồi tầng đất mặt để tái tạo vùng đất bị suy thoái.
Thực tiễn tại Việt Nam khi triển khai còn có những khó khăn, chưa đồng bộ về quy định. Khi triển khai các công trình hạ tầng làm trên đất lúa chuyển đổi, thì việc bóc, luu giữ, hoàn thổ đất bề mặt còn chưa được hướng dẫn rõ, đôi khi không có nơi để đổ đất này, điều này có thể làm chậm tiến độ dự án. Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu để đua ra các quy định, văn bản dưới luật để đồng bộ hơn về hệ thống pháp luật, và triển khai thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, địa phương và người dân và vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên quý giá, tài nguyên chiến lược- tầng đất mặt của vùng trồng đất lúa.
GS.TS Nguyễn Thị Lan cũng kiến nghị 5 giải pháp: Thứ nhất, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tầng đất mặt – quy định độ dày, quy trình bóc tách, lưu giữ và hoàn thổ. Thứ hai, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tầng đất mặt đất lúa, được cập nhật định kỳ 5 năm/lần. Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm của Sở Nông nghiệp và Môi trường trong giám sát, phục hồi và báo cáo định kỳ. Thứ tư, trích Quỹ bảo vệ và phát triển đất lúa để đầu tư cho hoạt động cải tạo, phục hồi tầng đất mặt bị suy thoái. Cuối cùng, khuyến khích các viện nghiên cứu và trường đại học tham gia quan trắc độc lập, đánh giá khoa học và chuyển giao công nghệ bảo tồn đất.
"Bảo vệ tầng đất mặt không chỉ là bảo vệ một lớp đất mỏng, mà là giữ gìn “linh hồn của ruộng đồng”, nền tảng của an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững nên đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét để hoàn thiện", GS.TS Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
https://danviet.vn/